Võ Minh Tập
Sách Hội thảo khoa
học quốc tế lần III về “Phát triển năng
lượng bền vững”, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, tr.53-58 và Tạp chí Khoa học Năng lượng Việt Nam.
Tóm tắt / Abstract:
Bài viết tập trung phân tích sự thay đổi cấu trúc của
thị trường năng lượng thế giới và nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó; Vai trò
năng lượng của một số khu vực trên thế giới như Trung Đông, Trung Á, châu Phi, Đông
Âu, Đông Á (trong đó có Việt Nam)…Cuối cùng là sự cạnh tranh chiến lược của các
nước lớn như Nga, Trung Quốc, Mĩ, EU…để tiếp cận nguồn tài nguyên của các khu vực
nêu trên và tác động đến Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
This article
mainly analyze about the changing structure of global’s energy markets and the
causes of this change. Energy’s role of some region on the world such as the
Middle East, Central Asia, Africa, East Europe, East Asia (including VietNam)…
Finally, the competitive strategies of some major country for instance Russia,
China, U.S and EU in order to approaching the resource of region mentioned
above and the affect to VietNam in the early twenty first century.
1.
Khái niệm năng lượng và an ninh năng lượng
Khái
niệm năng lượng
Cho đến nay, việc tiếp cận khái niệm năng
lượng đều phổ biến hầu hết khắp các quốc gia, ở cấp độ toàn cầu. Người ta căn cứ
vào những loại hình (khí hóa lỏng, xăng dầu, điện lực…), quá trình hình thành
(năng lượng có sẵn, năng lượng đến từ thiên thể, năng lượng do tác dụng của
trái đất…) , trình độ và cách sử dụng (năng lượng truyền thống, năng lượng mới),
phương pháp khai thác (khai thác từ tự nhiên, chuyển hóa, gia công…), khả năng
tái sinh (năng lượng tái sinh và không tái sinh) và căn cứ vòa mức độ ảnh hưởng
đến môi trường (năng lượng sạch, năng lượng không sạch…) để định nghĩa năng lượng.
Tuy nhiên, khái niệm năng lượng được hiểu chung nhất là các nguồn tài nguyên, nhiên liệu
cung cấp, phục vụ cho đời sống, sản xuất và các nhu cầu thiết yếu của con người.
Năng lượng là một trong những điều kiện
tối kiên quyết của sự sống còn và phát triển của mỗi con người và toàn nhân loại.
Điều kiện kiến quyết cho sự tồn tại và phát triển của bất kì nền văn minh nào
điều là năng lượng. Trong các loại năng lượng, dầu mỏ, than đá và khí hóa lỏng
là ba loại hình năng lượng quan trọng nhất, có ảnh hưởng đến mọi đời sống của
con người.
Khái
niệm an ninh năng lượng
An
ninh năng lượng là một
lĩnh vực quan trọng gắn với vấn đề an ninh và an ninh quốc gia. An ninh năng lượng
là một từ xuất hiện trong hệ thống từ ngữ hiện đại từ thập niên 50 của thế kỉ
XX. Nội hàm của an ninh năng lượng thay đổi theo đà phát triển của kinh tế xã hội,
những thay đổi giữa con người và thiên nhiên mà có những điều chỉnh nhất định.
An ninh năng lượng là một khái niệm rộng và mở. Nó bắt đầu được
đề cập đến kể từ thập niên 70 của thế kỷ trước, đặc biệt là giai đoạn xảy ra cuộc
khủng hoảng dầu lửa năm 1973-1974. Thời kỳ này, an ninh năng lượng được
hiểu theo nghĩa hẹp đồng nghĩa với “an ninh dầu lửa”, tức là đảm bảo khả năng tự
cung cấp dầu ở mức cao nhất đồng thời giảm mức nhập khẩu dầu và kiểm soát được
những nguy cơ đi kèm việc nhập khẩu. Ngày nay những thay đổi
trong thị trường dầu và các năng lượng khác cùng sự xuất hiện nhiều nguy cơ như
tai nạn, chủ nghĩa khủng bố, đầu tư kém vào cơ sở hạ tầng và thị trường hạn chế...
đã khiến khái niệm này không còn phù hợp. Tuy nhiên khái niệm an ninh năng lượng
không đơn thuần là các nguồn cung cấp năng lượng (chủ yếu là dầu lửa) được đảm
bào như những thập kỉ trước đây, mà còn được hiểu một cách toàn diện, bao quát
hơn là phải đảm bảo công tác bảo vệ môi trường, giá cả hợp lý và khả năng ứng
phó với các tình huống khẩn cấp phát sinh từ các nhân tố kinh tế, chính trị bên
trong và bên ngoài quốc gia.
Đến
nay, trải qua nhiều tranh luận và cách tiếp cận
khác nhau[1],
tuy nhiên khái niệm an ninh năng lượng hiện nay được thống nhất đó là
sự đảm bảo đầy đủ năng lượng dưới nhiều dạng khác nhau, sạch và rẻ. Có thể nói trong bối cảnh toàn cầu
hoá ngày nay, an ninh và an ninh năng lượng cũng đang nổi lên như những vấn đề
toàn cầu hết sức bức thiết.
2.
Cấu trúc thị trường năng lượng thế giới
Kể từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng 1970
đến nay, đặc biệt trong hơn thập niên đầu thế kỉ XXI, cấu trúc thị trường năng
lượng thế giới có nhiều biến động lớn. Lịch sử giá cả năng lượng trên thị trường
thế giới tăng liên tục. Cuộc khủng hoảng năm 70 thế kỉ trước với giá dầu tăng từ
10-11USD/thùng lên 37USD/thùng, năm 2005 ở mức 70USD/thùng, năm 2006 gần 80
USD/thùng, năm 2007 dao động dưới mức 100 USD/thùng nhưng đến tháng 7/2008 giá
dầu lần đầu tiên đạt kỉ lục lịch sử với mức giá 150 USD/thùng. Theo Bộ năng lượng
Mĩ, nhu cầu dầu lửa thế giới đến năm 2025 tăng lên 35%, theo IEA đến năm 2030
là 60% và nhu cầu dầu lửa tăng từ 116 triệu thùng/ngày so với 86 triệu
thùng/ngày như hiện nay. Thang đá và khí đốt cũng ở tình trạng tương tự.
Tuy nhiên, trong tương lai trữ lượng một số
nguồn năng lượng có xu hướng giảm. Theo văn phòng Tổ chức kiểm soát năng lượng
Anh (EWG), dưới lòng đất hiện còn khoảng 1.255 tỉ thùng dầu, đủ để cho con người
sử dụng trong 42 năm. Với tốc độ khai thác như hiện nay, thế giới chỉ sản xuất
được 39 triệu thùng/ngày vào năm 2030 so với 81 triệu thùng/ngày như hiện nay và
trong vòng 50-60 năm nữa nguồn dầu lửa dưới lòng đất sẽ hoàn toàn cạn kiệt. Còn
theo IEA, đến năm 2030, thế giới chỉ được cung cấp chưa đến 1/3 nhu cầu dầu lửa,
trữ lượng than đá và khí đốt tự nhiên chỉ còn khoảng 909 tỉ tấn và sẽ cạn kiệt
trong 155 năm nữa.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cấu trúc thị
trường năng lượng thay đổi? Chúng ta lí giải ở ba gốc độ về khía cạnh kinh tế,
khía cạnh về an ninh và khía cạnh bất đồng quan điểm các chủ thể về giải pháp xử
lí khủng hoảng năng lượng, nhất là dầu mỏ.
Đối với khía cạnh kinh tế, do nhu cầu về sử
dụng năng lượng và đầu tư ở các nước phát triển và đang phát triển, nhất là những
trung tâm tiêu thụ mới xuất hiện như Trung Quốc, Ấn Độ, quá trình công nghiệp
hóa ở các nước đang phát triển trong khi hạn chế nguồn năng lượng thay thế, dân
số tăng nhanh, làm cho nhu cầu dầu lửa thế giới tăng nhanh chóng. Mỹ là nước
tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới (24,6% thế giới), khí đốt (16% thế giới); Lượng
dầu tiêu thụ tại Trung Quốc trong 40 năm qua tăng 25 lần, chiếm 8,55% thế giới,
nước này có mức tăng trưởng tiêu thụ cao nhất, năm 2004 tăng 31%; Các nước Tây
Âu tiêu thụ 22% dầu thế giới, trong đó Đức nhập khẩu khí đốt lớn thứ hai thế giới
(14%); ASEAN cũng đang thiếu năng lượng trầm trọng trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa…. Đối với khía cạnh an ninh, hầu hết các khu vực chiến lược về
năng lượng, nhất là dầu lửa (như Trung Đông, Trung Á, Mỹ Latinh, châu Phi, Biển
Đông…) là mục tiêu tranh giành của các cường quốc và xu hướng bất ổn của nó. Sự
kiện Mĩ phát động những cuộc chiến tranh những năm gần đây ở Trung Đông, mâu
thuẫn Nga-Mĩ tại Trung Á, Nga-Châu Âu, sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển
Đông và các nước châu Phi.. cùng với những bất ổn như xung đột , mâu thuẫn sắc
tộc, tôn giáo ở nhiều nước và khu vực căng thẳng đã ảnh hưởng đến nguồn cung dầu
mỏ thế giới, cũng là những nhân tố làm tăng giá dầu thế giới. Cuối cùng là quan
điểm về cung cấp dầu mỏ của các chủ thể. Đó là những bất ổn, bất đồng quan điểm
giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế xuất khẩu dầu mỏ và những nước sử dụng dầu
mỏ như Mĩ, OPEC… trong việc bất hợp tác trong kiềm chế giá dầu tăng, phớt lờ đề
nghị cộng đồng quốc tế về tăng sản lượng khai thác, cố tình duy trì giá dầu để
thu lợi.
3.
Năng lượng chủ yếu một số khu vực và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn
Tình
hình năng lượng một số khu vực trên thế giới
Đến nay, sự phân bố không đều trữ lượng
năng lượng của một số, quốc gia trên thế giới làm cho vấn đề an ninh năng lượng
trở nên phức tạp. Theo thống kê, ba khu vực có trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất thế
giới là Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và Bắc Mĩ chiếm 82,3% trữ lượng dầu mỏ thế
giới, trong đó ở khu vực Trung Đông chiếm 64%, châu Mĩ (14%), châu Phi (7%), Nga
(4,8%), Châu Á-Thái Bình Dương (4,27%) [9, tr.49]. Cụ thể, theo đánh giá của Tổ
chức Dầu mỏ và Khí đốt thế giới (2009):
Đối
với Trung Đông, đây là khu
vực có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn nhất thế giới, trữ lượng dầu mỏ chiếm
hơn 50% tổng trữ lượng dầu mỏ thế giới với 727,314 tỷ thùng dầu và gần ½ trữ lượng
khí đốt thế giới với 2.591,653 Tcf, trong đó Saudi Arabia (266,710 tỉ thùng),
Iran (136,150 tỉ thùng), Iraq (155 tỉ thùng), Kuwait (104 tỉ thùng), UAE (97,8
tỉ thùng) [6]. Đây là những nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất khung vực Trung
Đông và xếp theo thứ tự thế giới lần lượt là 1, 3, 4, 5 và 7. Về trữ lượng khí
đốt, Iran (991,6 Tcf), Qatar (890 Tcf), Saudi Arabia (258Tcf) [6] và lần lược xếp
2, 3, 4 thế giới.
Đối
với châu Phi, đây là khu vực
có trữ lượng dầu mỏ đứng thứ 4 thế giới với 117,064 tỉ thùng, chiếm 10% tổng trữ
lượng dầu mỏ thế giới, còn trữ lượng khí đốt xếp thứ 3 thế giới (sau Trung
Đông) và Trung Á với 494,078 Tcf [6]. Trong đó, trữ lượng dầu mỏ của Libya chiếm
3,4%, Nigeria chiếm 3% tổng trữ lượng dầu thế giới và được xếp vị trí 9, 10 thế
giới; Còn khí đốt, Nigeria đứng thứ 7 với 184,2 Tcf và Algeria đứng thứ 9 với
159 Tcf [6].
Về khả năng sản xuất và tiêu thụ, có thể
nói Trung Đông là khu vực sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới hơn 70% tổng sản lượng
của OPEC và 30% tổng sản lượng thế giới, còn châu Phí lần lượt chiếm 30% và
13%.
Đối
với Nga, dự trữ khí đốt
vào khoảng 47,2 – 47,5 nghìn tỉ m3, hơn 70% trữ lượng thăm dò tập
trung vùng Ural-Tây Xiberia, dự trữ về dầu lửa chiếm 13% toàn thế giới, trữ lượng
thăm dò ước tính khoảng 15,5 – 15,7 tỉ tấn, đứng sau Saudi Arabia và 4/5 trữ lượng
dự báo tập trung ở vùng Xiberi. Đối Trung
Á, đây là khu vực hàng đầu thế giới về trữ lượng dầu khí và gaz tự nhiên, tập
trung chủ yếu ở Kazakhstan, Turkmenistan và Uzbekistan, trong đó Kazakhstan có
trữ lượng dầu mỏ đứng thứ 7 thế giới, với khả năng khai thác hiện nay là 4 tỉ tấn,
trữ lượng khí đốt có thể khai thác là 3.000 m3 [3, tr.43].
Ở
Mĩ Latinh, theo Tổ chức
Năng lượng Mỹ Latinh (OLADE), trữ lượng dầu lửa của khu vực này hiện đã được
xác định là gần 1,7 ngàn tỷ thùng, chiếm 20% tổng trữ lượng dầu lửa toàn cầu. Mỹ
Latinh còn là khu vực có trữ lượng dầu lửa lớn thứ 2 thế giới sau khu vực Trung
Đông (chiếm 55% trữ lượng dầu lửa toàn cầu). Hiện nay, ít nhất 345 tỷ
thùng dầu lửa ở Mỹ Latinh đã sẵn sàng để khai thác [10]. Các nước có trữ
lượng dầu của khu vực là Venezuela hiện dẫn đầu thế giới về dầu lửa với trữ lượng
297 tỷ thùng, chiếm 85% trữ lượng dầu lửa của cả Mỹ Latinh, Brazil, Mehico,
Ecuardo…
Đối với Biển Đông, theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã
được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu
thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng
213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105
tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu
tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới.
Nhìn chung, trữ lượng dầu mỏ, khí đốt chỉ tập
trung ở một số quốc gia, khu vực, đặc biệt là các nước vùng Vịnh, Trung Á, Bắc
Phi, vùng sông Niger… Vị trí địa lý ưu đãi cho các khu vực cơ hội khai thác và
sản xuất đầy tiềm năng không những đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng trong nước
đang ngày càng cao mà còn giúp các nước xuất khẩu. Song làm thế nào để phát huy
tối đa lợi thế này thực sự vẫn còn là một vấn đề đặt ra đối với chính các quốc
gia nói trên và đối với cả thế giới.
Cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn
Như trên phân tích, nguồn tài nguyên năng
lượng hầu hết tập trung ở các khu vực Trung Á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông…và
việc xuất hiện các cường quốc tiêu thụ năng lượng mới (như Mỹ, EU, Trung Quốc,
Nhật, Ấn Độ…) với nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng trong khi nguồn cung đang cạn
kiệt đã tác động mạnh mẽ tới cơ cấu quyền lực của thế giới, vấn đề an ninh năng
lượng ngày càng trở nên cấp bách.
Theo dự báo, đến năm 2030 nhu cầu năng lượng
sẽ tăng lên 60% so với năm 2005 với tốc độ phát triển kinh tế trung bình 3,5-4%
trên toàn cầu và dân số thế giới tăng lên 8,3 tỉ người. Trong các nước phát triển,
nhu cầu về năng lượng sẽ tăng từ 3 đến 3,5 lần so với OEDC, trong đó Trung Quốc,
Ấn Độ chiếm hơn 50%, theo ước tính tới 2020 Mỹ cần thêm 50% khí và 1/3 lượng dầu
hiện nay, hiện nước Mĩ dầu mỏ chiếm khoảng 40% nhu cầu năng lượng trong nước. Tại
Hội nghị thượng đỉnh EU (22/5/2013), dự kiến đến năm 2035, EU phải nhập 80% lượng
khí đốt, nhập khẩu dầu 90%, than đá 70%. Ấn Độ sẽ sớm trở thành nước tiêu thụ
năng lượng lớn thứ 4 thế giới sau Hoa Kì, Trung Quốc, Nhật Bản, với 33% nhu cầu
năng lượng và 65% lượng dầu nhập khẩu[4].
Các dự báo đều cho rằng nguồn cung dầu mỏ của
thế giới chỉ gia tăng thêm trong khoảng nửa thập kỉ nữa trước khi đạt đỉnh điểm
rồi bắt đầu giảm, còn nguồn cung khí đốt sẽ tiếp tục tăng thêm 1-2 thập kỉ rồi
cũng giảm. Điều này làm cho cuộc cạnh tranh giành giật các nguồn tài nguyên như
dầu mỏ, khí đốt, than, và uranium ngày càng quyết liệt trên toàn cầu, quyền lực
của cải đang chuyển dần từ những nước thiếu năng lượng (Trung Quốc, Mỹ, Nhật,
EU) sang các nước dư thừa năng lượng (Nga, Saudi Arabia, Venezuela) và tiêu thụ
năng lượng của các quốc gia đang phát triển trong tổng lượng tiêu thụ năng lượng
sẽ tăng lên và các quốc gia phát triển sẽ giảm đi[2].
Rõ ràng vấn đề an ninh năng lượng buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược
đối ngoại của mình, đi tìm kiếm những nguồn cung cấp năng lượng ổn định. Cùng với
tăng cường quan hệ ngoại giao chính trị, kinh tế thương mại với các khu vực,
các nước nhiều dự trữ năng lượng, các cường quốc luôn áp dụng các biện pháp
quân sự nhằm gia tăng vị thế trong cuộc chiến về năng lượng như hành động của
Mĩ, Trung Quốc, Nga, EU… ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Biển Đông….những năm gần
đây.
Tất cả những vấn đề trên đây làm cho triển
vọng phát triển năng lượng toàn cầu liên quan tới việc nâng cao tính minh bạch,
dự báo được và tính ổn định của thị trường toàn cầu. Cải thiện môi trường đầu
tư và lĩnh vực năng lượng, nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm năng lượng,
đa dạng hóa các dạng năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng cũng như an ninh vận
chuyển năng lượng, hạ tầng năng lượng, giảm bớt thiếu hụt năng lượng qui mô lớn,
giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Đi
tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng năng lượng
Trong bối cảnh các nguồn năng lượng ngày
càng khan hiếm dần, đe dọa trực tiếp đến sự ổn định, đời sống kinh tế-xã hội của
tất cả con người, mọi quốc gia trên hành tinh. Ba giải pháp sau đây được cộng đồng
thế giới thường dùng. Thứ nhất, tiết kiệm tối đa việc sử dụng năng lượng. Thứ
hai, tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế và giải pháp; Thứ ba, chỉ một số nước
áp dụng, là dùng các biện pháp an ninh, quân sự, kinh tế … nắm lại các nguồn
nguyên liệu năng lượng chiến lược.
Tuy nhiên, các nguồn năng lượng thay thế vẫn
còn nhiều bất cập, chưa phù hợp và chưa phổ biến. Đến nay, thế giới đã và đang
tập trung phát triển năng lượng hạt nhân, năng lượng tái sinh và năng lượng sinh
học, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ (dân số gần 4 tỉ người) có máy điện hạt
nhân, và các nhà máy điện hạt nhân cung cấp 16,4% sản lượng toàn cầu, tuy nhiên
khó khăn là năng lượng hạt nhân thường đi kèm với nguy cơ rò rỉ phóng xạ, các
nước lợi dụng sản xuất vũ khí hạt nhân, hạn chế về tài chính…, trên thế giới hiện
có 45 quốc gia sử dụng năng lượng tái sinh, 60 nước có chương trình quốc gia
phát triển năng lượng tái sinh, 19 nước khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời
và sưởi ấm nhưng nhược điểm của nó phụ thuộc vào thời tiết, công trình thủy điện
dễ gây biến đổi địa chất, khang hiếm nguồn nước, bên cạnh đó, phát triển năng
lượng sinh học như sản xuất etanol, dầu diezen…
Đối với Việt Nam, vấn đề năng lượng và an
ninh năng lượng tác động rất lớn đến nước ta, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp
thiết. Việt Nam đã đưa ra “Chiến lược Phát triển năng lượng quốc gia” đến năm
2020, tầm nhìn 2050 (19/12/2007) [11], mặc dù vấn đề thực hiện còn nhiều hạn chế
do phụ thuộc vào nhiều nhân tố, nhưng nhìn chung với chiến lược kể trên, tương
lai Việt Nam có nhiều cơ hội để mở rộng hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, khai
thác, sử dụng và sản xuất năng lượng với các quốc gia, tổ chức khu vực và trên
thế giới.
Nhìn tổng quan, giải pháp ưu tiên hàng đầu
hiện nay là tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên, giải pháp này cho đến nay vẫn
không thể làm giảm được nhu cầu sử dụng năng lượng ngày một tăng của thế giới. Đặc
biệt tại những nước công nghiệp hóa, để đáp ứng nhu cầu phát triển, người ta vẫn
phải sử dụng nếu không tìm ra loại năng lượng khác thay thế dầu, than và khí đốt.
Kết
luận
Năng lượng và an ninh năng lượng từ lâu đã
trở thành nhân tố tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Sự phân bố, mất cân bằng trong kết cấu năng lượng thế
giới đã dẫn đến sự mất cân bằng trong khai thác, sử dụng năng lượng các quốc
gia. Hiện tại, dầu mỏ, than đá và khí đốt vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu, tác
động đến mọi sinh hoạt, đời sống nhân loại. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên này
có nguy cơ cạn kiệt trong 50 năm tới. Vì vậy, vấn đề nan giải và trong một vài
thập niên tới, là khả năng phát hiện và đưa vào sử dụng các nguồn năng lượng mới
của thế giới, theo đánh giá của nhiều chuyên gia vẫn chỉ ở mức dự án tiền khả
thi. Do vậy, sức ép về thiếu hụt năng lượng lại tiếp tục gia tăng, bởi vậy, dù
có nhiều quan điểm lạc quan, nhưng vấn đề an ninh năng lượng đối với nhân loại
vẫn là vấn đề bứt xúc giống như thế kỉ trước, nếu không muốn nói là còn căng thẳng
ít nhất trong khoảng ¾ đầu thế kỉ XXI.
Bên cạnh đó, vấn đề năng lượng và an ninh
năng lượng tiếp tục không còn là vấn đề chuyên môn kĩ thuật thuần túy mà là vấn
đề chính trị xã hội, vấn đề quan hệ quốc tế. Các cuộc xung đột thế kỉ XX đều gắn
chặt với vấn đề năng lượng và an ninh năng lượng, tình trạng này càng rõ nét và
căng thẳng hơn trong quan hệ quốc tế thập niên đầu thế kỉ XXI.
Cuộc khủng hoảng năng lượng vẫn tiếp tục được
dự báo, thậm chí mang tính phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, Việt Nam càng cần
phải xây dựng một chiến lược hiệu quả về an ninh năng lượng cho quốc gia đến
100 năm tới.
Tài
liệu tham khảo
1. Vương Dật Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
2.
U.S – China economic and security review commission, U.S. Gorvernment Printing
Office, Washington D.C, 2003.
3. Đặng Minh Đức (Cb), Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) – Những vấn đề chính trị, kinh tế
nổi bật, Nxb KHXH, Hà Nội, 2011.
4. Robert D.Kaplan, Center Stage for the Twenty-first Century – Power Plays in the India
Ocean, Foreign Affairs, March/April, 2009.
5. EIA, International
Energy Outlook 2006, DOE/EIA-0408-June, 2006.
6. Cơ quan thông tin về năng lượng, EIA,
03/03/2009.
7. Trần Trọng, Liệu có một cuộc “chiến tranh tài nguyên” toàn cầu trong thế kỉ XXI,
Tạp chí Cộng sản số 13(157), 2008.
8. Yegrin Daneil, Ensuring Energy Security, Foreign Affair, Vol.85, No.2 (Mar-Apr),
pp.69-82, 2006.
9. Nguyễn Minh Mẫn, Chính sách an ninh năng lượng của Trung Quốc trong những năm đầu
thế kỉ XXI, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Đại học KHXH-NV TP.HCM, 2012.
[1] Nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới có
những hướng tiếp cận, thay đổi và sử dụng khái niệm an ninh năng lượng khác
nhau, Xem: Vương Dật Châu (2004), An ninh
quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.421), hay trong
báo cáo “Chính sách năng lượng quốc gia
Hoa Kì”(5/2000) (Xem U.S – China economic and security review
commission, U.S. Gorvernment Printing Office, Washington D.C, 2003), “Chiến lược năng lượng của Liêng Bang Nga đến
năm 2020” (5/2003)…,
[2] Nhu cầu tiêu thụ năng lượng của thế giới
theo nhóm quốc gia 2003-2030 với tỉ lệ trung bình/năm là 2%, trong đó được phân
bổ như sau: Đối với OECD (1%), trong đó: Bắc Mĩ (1,3%), châu Âu (0,7%), châu Á
(1%); Không phải OECD là 3%, trong đó, châu Á (3,7%), Trung Đông (2,4%), châu
Phi (2,6%), Trung và Nam Mĩ (2,8%), Nguồn: EIA (2006), International Energy
Outlook 2006, DOE/EIA-0408-June, pp.7.
No comments:
Post a Comment